Thấu hiểu - Sẻ chia
Menu

THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG (Phần 1)

  • 12/09/2022

Thời điểm hợp đồng có hiệu lực đồng nghĩa với việc phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Do đó, việc xác định hiệu lực hợp đồng rất quan trọng đối với các bên tham gia.

I. Hai thời điểm 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 401 BLDS thì: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”. Quy định này về cơ bản giống với quy định của BLDS 2005 (Điều 405 BLDS) và BLDS 1995 (khoản 3 Điều 404). Một điểm khác biệt “nhỏ” duy nhất là BLDS 1995 và 2005 đều quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có thể do “Pháp luật có quy định khác”, nhưng BLDS 2015 chỉ quy định  “Luật liên quan có quy định khác”, tức là chỉ khác nhau ở thuật ngữ  “Pháp luật” và “Luật”. Sự khác biệt này xuất phát từ quy định của Hiến pháp, “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [khoản 2  Điều 14] và ở góc độ này thì sự khác biệt giữ BLDS 2015 với các BLDS trước đó không phải là vấn để nhỏ nữa.  

Với quy định tại khoản 1 Điều 401 BLDS nêu trên, có hai thời điểm chúng ta cần lưu ý là thời điểm “giao kết hợp đồng” và thời điểm “có hiệu lực của hợp đồng”. Nguyên tắc được thiết lập trong quy định này là, khi các bên không có thỏa thuận và luật không có quy định khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, thì hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Do vậy, câu hỏi đặt ra là thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm nào? Câu hỏi này sẽ chỉ được trả lời chính xác khi chúng ta xác định được hình thức giao kết của  một hợp đồng cụ thể.

1.1.Thời điểm giao kết hợp đồng

Theo quy định tại Điều 400 BLDS về thời điểm giao kết hợp đồng:

a. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.

b. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó.

c. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.

d. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.

Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều này.

Quy định này thể hiện, mỗi hình thức hợp đồng có những phương thức giao kết khác nhau và còn có thể có nhiều phương thức giao kết đối với một hình thức hợp đồng hoặc có nhiều hình thức hợp đồng được giao kết đối với cùng một nội dung.

 Trường hợp các bên không trực tiếp thỏa thuận, ký kết hợp đồng mà bên đề nghị giao kết gửi văn bản đề nghị giao kết (hoặc dự thảo hợp đồng) cho bên được đề nghị giao kết, thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết (khoản 1 Điều 400 BLDS); Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó (khoản 2 Điều 400 BLDS). Chẳng hạn đối với loại hợp đồng mua bán, trong đó các bên có thỏa thuận về việc bên mua được dùng thử vật mua trong một thời hạn gọi là thời hạn dùng thử. Trong thời hạn dùng thử, bên mua có thể trả lời mua hoặc không mua; nếu hết thời hạn dùng thử mà bên mua không trả lời thì coi như đã chấp nhận mua theo các điều kiện đã thỏa thuận trước khi nhận vật dùng thử…” [khoản 1 Điều 452 BLDS].

Đối với trường hợp các bên thỏa thuận trực tiếp bằng lời nói (bằng miệng), thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng (khoản 3, Điều 400 BLDS). Mặc dù, Điều luật này quy định thời điểm “các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng”. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu là thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong về nội dung cơ bản của hợp đồng, còn nếu các bên mới bắt đầu thỏa thuận, hoặc đang trong quá trình thỏa thuận thì chưa thể coi là đã giao kết hợp đồng.

Đối với hợp đồng bằng văn bản và các bên trực tiếp thỏa thuận, giao kết, thì thời điểm giao kết hợp đồng này là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản (khoản 4 Điều 400 BLDS).

Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản, tức là một hợp đồng được xác lập bằng nhiều hình thức khác nhau, thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng (theo hợp đồng bằng lời nói). Đây là quy định mới so với BLDS 2005, quy định bổ sung này nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn giao kết hợp đồng. Thực tiễn xét xử tại Tòa án đã từng gặp phải trường hợp các bên sử dụng nhiều hình thức, phương thức khác nhau để giao kết một hợp đồng, khi xảy ra tranh chấp Tòa án rất khó xác định thời điểm giao kết hợp đồng, dẫn đến không có cơ sở xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.

Ví dụ: Doanh nghiệp kinh doanh nước giải khát PS muốn mua bảo hiểm cho một lô hàng là nước giải khát hộp giấy (loại 01 lít), trong quá trình vận chuyển từ tỉnh A đến tỉnh Z. Thời điểm 8g ngày 10/8/2021 đại diện Doanh nghiệp PS gọi điện thoại đến Công ty bảo hiểm PRD để thỏa thuận về việc mua hợp đồng bảo hiểm đối với lô hàng là 100 thùng nước giải khát (mỗi thùng là 50 hộp), các bên đã thỏa thuận xong về nội dung của hợp đồng; ngay sau đó Công ty PS gửi mẫu đơn yêu cầu cung cấp bảo hiểm cho Công ty bảo hiểm PRD, 11g30 đại diện Công ty bảo hiểm PRD ký tên, đóng dấu vào đơn yêu cầu cung cấp bảo hiểm và gửi lại cho Công ty PS. Tuy nhiên, trước đó, vào thời điểm 10g, xe ô tô chở nước giải khát bị tai nạn, toàn bộ số nước giải khát bị hư hỏng.

Sau đó Công ty PS khởi kiện yêu cầu Công ty bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm, vì cho rằng hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết từ 8g sáng; ngược lại Công ty bảo hiểm lại cho rằng hợp đồng bảo hiểm được giao kết lúc 11g30, nên thời điểm ô tô bị tai nạn hợp đồng bảo hiểm chưa được giao kết, nên không phát sinh nghĩa vụ bảo hiểm.

Với nội dung tranh chấp này, nếu theo quy định của BLDS năm 2005 sẽ rất khó để xác định hợp đồng bảo hiểm được giao kết vào thời điểm nào, nhưng với BLDS 2015 thì vấn đề xác định thời điểm giao kết của hợp đồng này không còn khó khăn, trong trường hợp này phải theo quy định về thời điểm giao kết của hợp đồng bằng lời nói, tức là vào lúc 8g sáng và như vậy đồng nghĩa với việc Công ty bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm (đoạn 2 khoản 4, Điều 400 BLDS).

Ngoài các phương thức giao kết hợp đồng truyền thống đã nêu trên, ngày nay chúng ta còn biết đến một phương thức giao kết mới đó là giao kết bằng phương tiện điện tử. Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Giao dịch điện tử thì, “Trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu”.

Theo quy định tại các Điều 18, 19, 20 Luật giao dịch điện tử và khoản 2 Điều 11 Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006, thì thời điểm nhận thông điệp dữ liệu là “Thời điểm người nhận có thể truy cập được chứng từ điện tử đó tại một địa chỉ điện tử do người nhận chỉ ra. Thời điểm nhận một chứng từ điện tử ở địa chỉ điện tử khác của người nhận là thời điểm người nhận có thể truy cập được chứng từ điện tử tại địa chỉ này và người nhận biết rõ chứng từ điện tử đã được gửi tới địa chỉ này”. Theo quy định này thì người nhận được coi là có thể truy cập được một chứng từ điện tử khi chứng từ điện tử đó tới được địa chỉ điện tử của người nhận.

Như vậy, tùy theo hình thức của hợp đồng (bằng lời nói, bằng văn bản trực tiếp, văn bản thư tín…) mà pháp luật quy định thời điểm giao kết tương ứng và như vậy, khi đã xác định được chính xác thời điểm giao kết thì đồng thời chúng ta cũng xác định được thời điểm có hiệu lực của đa số các hợp đồng (trừ các hợp đồng có hiệu lực theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật).

1.2.Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận

Xuất phát từ một trong các nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt của chế định hợp đồng là “Tự do thỏa thuận”, nên pháp luật dân sự cho phép các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, sự thỏa thuận đó không được trái luật hoặc trái với bản chất của hợp đồng.

Ví dụ: Theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013, thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Do vậy, trường hợp này các bên không thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trước thời điểm đăng ký được.

Hoặc các bên cũng không thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trước thời điểm các bên giao kết hợp đồng được, vì như vậy là trái với bản chất của hợp đồng.

Thực tiễn đàm phán, ký kết hợp đồng, trong rất nhiều trường hợp các bên thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phải là thời điểm các bên giao kết. 

Ví dụ: Trong hợp đồng bảo hiểm, các bên thỏa thuận thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực pháp luật là ngày bên mua bảo hiểm hoàn tất hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và nộp đủ phí bảo hiểm đầu tiên. Hoặc trong nhiều trường hợp, hợp đồng đã được đại diện các bên ký kết, nhưng trong hợp đồng có điều khoản quy định, hợp đồng sẽ có hiệu lực kể từ ngày được người có thẩm quyền của Công ty phê chuẩn.

 

_____________________________________________________________________________

Hãy để lại tin nhắn hoặc liên hệ Việt Nhật theo những cách thức sau để được tư vấn:

  • Facebook: Văn Phòng Luật Sư Việt Nhật LLP

  • Youtube: Văn phòng Luật Sư Việt Nhật LLP

  • Email: luatsuvietnhat@gmail.com

  • Hotline: 037 5244 218

Địa chỉ:

- Văn phòng: 965/42c Quang Trung, Phường 14, quận Gò Vấp, TP.HCM.

zalo-img.png